Chương 1: Máu trên đường, vinh quang từ cái chết, xuống nơi của quý bà có râu
Đây là chương 1 của bộ truyện được Riot tung ra nhân dịp Halloween, được Game8 dịch thuật để giới thiệu với game thủ Việt. Trong chương truyện này có sự xuất hiện của Miss Fortune, Olaf, Lucian và Illaoi – vị tướng mới sắp ra mắt của LMHT. Game8 xin được giới thiệu đến các bạn nửa đầu của chương truyện này.
Chú thích:
- Butcher Blade, Jackdaw: hai băng đảng đối địch ở Bilgewater.
- Quý bà có râu: một sinh vật truyền thuyết của Bilgewater trong biển.
Băng Butcher Blade treo tên Jackdaw lên bằng một cái móc rỉ sét xuyên qua xương hàm và bỏ hắn lại cho những kẻ dọn xác của bến cảng. Đây là thành viên băng đảng thứ 17 mà người đàn ông nhìn thấy bị giết trong đêm nay.
Một đêm an bình theo tiêu chuẩn Bilgewater.
Ít nhất là kể từ khi vua hải tặc sụp đổ.
Những con chuột cầu cảng nanh đỏ đã ăn gần hết bàn chân của gã và đang leo lên những cái giỏ chồng chất để xé phần thịt mềm trên chân của hắn ta.
Người đàn ông đội mũ trùm đi tiếp.
“Cứu. Tôi.”
Những lời nói đó ùng ục, nghẹn ngào thoát ra từ cổ họng đẫm máu. Cái móc bị cắm sâu vào trong khung gỗ của một cần cẩu. Chẳng có cách gì để gỡ gã Jackdaw xuống mà không xé nát xương sọ của hắn ta.
“Cứu. Tôi.” Hắn lặp lại.
“Để làm gì?” Cuối cùng thì người đàn ông cũng trả lời. “Ngay cả khi ta đem ngươi xuống, ngươi vẫn sẽ chết khi mặt trời lên.”
Gã Jackdaw cẩn thận nâng bay tay vào một cái túi ẩn trong chiếc áo chẽn và móc ra một đồng Kraken vàng. Ngay cả trong ánh sáng tù mù, người đàn ông đội mũ trùm vẫn nhận ra nó là thật.
Những con thú ăn xác rít lên và xù lông khi ông ta đến gần. Chuột cầu cảng không lớn, nhưng thịt tươi như thế này không phải là thứ chúng dễ bỏ qua. Chúng nhe những cái răng dài nhọn và phun ra những giọt nước bọt đầy bệnh dịch.
Ông ta đá một con chuột xuống nước, dẫm nát một con khác. Lũ chuột cố gắng cắn và đớp, nhưng những bước chân nhanh nhẹn khiến chúng không thể cắn trúng người đàn ông. Mỗi chuyển động của ông ta đều mượt mà và chính xác. Thêm ba con nữa bị giết trước khi cả lũ chuột chạy túa vào bóng tối, những con mắt lồi ra đỏ lòm.
Người đàn ông đứng bên gã Jackdaw. Hình thể của ông ta bị che khuất, nhưng ánh sáng của mặt trăng cho thấy một khuôn mặt không cười.
“Cái chết đã đến với ngươi,” ông ta nói. “Chấp nhận nó, và ta đảm bảo nó sẽ là kết cục.”
Ông ta đưa tay vào trong áo choàng và rút ra một mũi nhọn bằng bạc lấp lánh. Dài hai gang tay và được khắc những biểu tượng cong vút suốt chiều dài, nó giống như một chiếc dùi da. Ông đặt mũi nhọn dưới cằm của gã đang giãy chết.
Đôi mắt hắn ta trừng lớn và bàn tay hắn cào cấu tay áo của người đàn ông trong khi ông nhìn ra phía biển. Biển là một tấm gương đen lấp lánh những ngọn đèn cầy mông lung, những lò than trên cầu cảng và ánh sáng những ngọn đèn lồng bị bóp méo qua những mảnh kính thu lại từ hàng ngàn con tàu đắm.
“Các ngươi biết thứ gì đang chờ ở chân trời. Các ngươi biết sự kinh hoàng nó đem tới. Nhưng các ngươi vẫn cắn xé nhau như bầy chó dại. Ta chẳng thể hiểu được.”
Ông ta quay lại và dùng lòng bàn tay đập mạnh vào mặt đáy phẳng của cái dùi, đẩy mũi nhọn vào trong não của hắn ta. Một cơn co giật cuối cùng và cơn đau của gã Jackdaw chấm dứt. Đồng vàng rơi khỏi những ngón tay của xác chết và rơi xuống biển với một tiếng nước nhỏ.
Người đàn ông rút mũi dùi và lau sạch nó trên chiếc áo rách nát của gã Jackdaw, rồi trả nó về chiếc bao bên trong áo khác và rút ra một mũi kim vàng và một đoạn chỉ bạc được ngâm trong nước lấy từ một dòng suối Ionia.
Làm việc với kỹ năng của một người thợ lành nghề, ông ta may đôi mắt và miệng của cái xác lại. Trong khi làm điều đó, ông nói những lời đã được dạy cho mình từ rất lâu trước kia, những lời từng được nói với nghĩa xấu bởi một vị vua đã chết.
“Giờ cái chết không thể cướp được ngươi,” ông ta nói khi hoàn tất công việc của mình và dọn dẹp các vật dụng.
“Có thể không, nhưng bọn tao sẽ không rời đi tay không, chắc chắn thế,” một giọng nói cất lên đằng sau người đàn ông đội mũ trùm.
Ông ta quay lại và kéo chiếc mũ trùm đầu xuống để lộ làn da đồi mồi, quai hàm góc cạnh và mang vẻ quý phái. Mái tóc đen được cột lại thành một búi dài và đôi mắt đã nhìn thấy những điều kinh hoàng không thể lường bắt đầu dò xét kẻ mới xuất hiện.
Sáu người đàn ông. Mặc những bộ trang phục da bị khô cứng bởi máu và được cắt để lộ tứ chi đầy cơ bắp, bao trùm trong những hình xăm gai. Mỗi tên mang một chiếc móc răng cưa và đeo đai lưng móc đầy những con dao đồ tể. Lũ côn đồ mạt hạng trở nên lớn gan nhờ sự gục ngã của tên bạo chúa từng thống trị Bilgewater bằng bàn tay sắt. Khi hắn biến mất, thành phố này rơi vào hỗn loạn khi các băng đảng đối nghịch tranh giành lãnh địa.
Bọn chúng không hề che giấu. Giày đinh, mùi hôi hám và những tiếng rủa xả đã để lộ sự xuất hiện của chúng từ lâu trước khi chúng để lộ mình.
“Tao không phiền một đồng xu rơi xuống cho quý cô có râu, chắc chắn là không,” gã Butcher to lớn nhất, một gã bụng ưỡn ra đến mức việc hắn tìm ra được một cái xác đủ sức chứa nó là cả một điều kỳ diệu. “Nhưng một trong chúng tao đã giết Lão Knock John này, công bằng, dĩ nhiên. Vì thế đồng Serpent vàng kia là của chúng tao.”
“Các ngươi muốn chết ở đây?” người đàn ông hỏi lại.
Gã béo cười to.
“Mày có biết mày đang nói chuyện với ai không?”
“Ta không biết. Ngươi có biết không?”
“Nói đi, để tao còn khắc tên mày vào tảng đá sẽ được dùng để chôn xương của mày.”
Ông ta nói, phất lui chiếc áo khoác dài và rút ra một cặp súng ngắn được làm từ đá và kim loại mà ngay cả những nhà giả kim Zaun liều lĩnh nhất cũng không biết được. Một luồng sáng đẩy ngã gã Butcher béo bằng một lỗ thủng ở nơi mà trái tim trương phồng của hắn từng ở.
Khẩu súng lục thứ hai của Lucian nhỏ hơn, tinh tế hơn và bắn ra một luồng sáng vàng nóng cháy cắt đôi một gã Butcher khác từ cổ đến giữa hai chân.
Cũng như lũ chuột cầu cảng, chúng bỏ chạy, nhưng Lucian bắn hạ từng tên một. Mỗi tia sáng bùng lên là một cái chết. Chỉ trong nháy mắt, cả sáu tên Butcher đều đã chết.
Lucian cất đôi súng của mình và kéo kín lại áo choảng. Những người khác sẽ bị thu hút bởi âm thanh và sự phẫn nộ của điều ông đã làm, và ông chẳng có thời gian để cứu linh hồn của những gã này khỏi điều sắp đến.
“Không thể nào lại là hắn,” Lucian nói.
Ông không đủ mạnh để giết gã cai ngục xiềng xích.
Chiếc áo giáp bằng sợi thép của Olaf bị trùm trong máu và nội tạng. Hắn gầm lên khi vung chiếc búa của mình bằng một tay. Xương vỡ nát và cơ bắp bị tách rời trước món vũ khí có lưỡi được tôi bằng một lớp băng vĩnh cửu từ miền đất xa nhất của Freljord.
Cầm một ngọn đuốc lách tay trong tay, hắn mở đường qua những nội tạng nhão nhoét của con Krakenwyrm, đào sâu hơn với từng nhát chém. Olaf đã mất ba giờ để đến được đây, chém qua những nội tạng nhấp nháy và xương đặc của nó.
Đúng vậy, con thú đã chết từ một tuần trước sau một cuộc truy đuổi hàng tháng trời bắt đầu từ phía bắc. Hơn 30 mũi lao được phóng bởi những cánh tay khỏe mạnh và những tấm lưng lực lưỡng từ boong tàu Winter’s Kiss xuyên qua lớp vảy của nó, nhưng chính mũi lao của Olaf mới kết thúc cuộc đấu tranh này.
Giết con ác thú giữa một cơn bão bên ngoài Bilgewater là rất hào hứng, và trong một khoảnh khắc khi con tàu dựng lên và suýt ném Olaf vào miệng con quái thú, Olaf nghĩ đây là khoảnh khắc hắn có được cái chết vinh quang mình tìm kiếm.
Nhưng rồi Svarfell Người Cầm Lái, cái bả vai to khỏe khốn kiếp của hắn, bẻ thẳng bánh lái để chỉnh lại con tàu.
Một ngày gần hơn đến với sự kinh hoàng khi phải chết bình an trên giường như một lão già râu bạc phếch từ thời cổ đại.
Họ thả neo ở Bilgewater, hi vọng bán được cái xác và thu chiến lợi phẩm từ nó, những cái răng khổng lồ, dòng máu đen cháy như dầu hỏa và những xương sườn ngoại cỡ để làm kèo nhà cho mẹ của Olaf.
Những đồng tộc mệt mỏi của Olaf giờ đang ngủ trên Winter’s Kiss sau cuộc săn, nhưng Olaf luôn không kiên nhẫn và không thể nghỉ ngơi. Thay vào đó, Olaf cầm lấy chiếc búa của mình và bắt đầu cắt rời con quái khổng lồ.
Cuối cùng, hắn thấy được hàm trong của con quái, một cuống họng có xương khổng lồ đủ để nuốt cả một bộ tộc hoặc nghiền nát một con tàu Longreaver bằng một nhát cắn. Những cái răng của nó có những đường rãnh như những tảng đá hắc diện thạch.
Olaf gật đầu. “Yah. Đủ để làm một vòng lò sưởi cho các Wind-Walker và những tên đọc điềm báo từ xương và tro.”
Hắn cắm ngọn đuốc nhọn vào thịt của con Krakenwyrm và bắt đầu làm việc, chém vào xương hàm cho đến khi một cái răng lỏng ra. Móc chiếc búa vào đai lưng, Olaf nhấc cái răng lên và vác lên vai, gầm gừ vì sức nặng khủng khiếp.
“Như một con Frost Troll thu thập băng cho ổ của mình,” hắn nói, và bước ra khỏi nội tạng của con quái, ngập đến đầu gối trong máu và những thứ dịch tiêu hóa đầy acid.
Rồi Olaf bước ra khỏi vết thương khổng lồ trên lưng con Kraken và hít đầy phổi một ít không khí tươi mát hơn. Ngay cả sau khi trải qua nội tạng của con quái, Bilgewater vẫn là một nồi lẩu của khói, mồ hôi và xác chết. Không khí của nó trĩu nặng với mùi của quá nhiều người sống chen chúc với nhau như lũ lợn trong chuồng.
Olaf nhổ một bãi nước bọt to, “về phía bắc càng sớm càng tốt.”
Không khí của Freljord sắc bén đến mức nó có thể cắt vào xương. Mỗi hơi thở ở đây nghe đầy mũi sữa thiu và thịt thối.
“Ê này!” một ai đó hét lên từ mặt nước.
Olaf chồm qua boong tàu và thấy một ngư dân đơn độc chèo ra biển qua một đường dây đầy những cái phao treo chim chết và chuông.
“Con quái đó mới thải mày ra à?” lão ngư dân gào to.
Olaf gật đầu và nói, “tao không có tiền trả vé tàu, noên tao để nó ăn tao ở Freljord và đưa về phương Nam.”
Lão ngư dân cười và uống từ một chai thủy tinh nứt nẻ. “Tao sẽ ngồi xuống nghe câu chuyện đó, quá đúng!”
“Lên tàu Winter’s Kiss và hỏi Olaf,” hắn quát. “Chúng ta sẽ chia nhau một thùng Gravol và vinh danh con quái bằng những bài hát diệt vong.”
(Còn tiếp)
Viết bình luận